Thịnh Hành 5/2024 # Quá Trình Phiên Dịch Kinh Thánh Sang Tiếng Việt # Top 9 Yêu Thích

Căn cứ vào các sách sử của Việt Nam và Trung Hoa, một số nhà nghiên cứu cho rằng quá trình truyền bá Cơ Đốc giáo đến Việt Nam có thể chia làm hai giai đoạn chính. Giai đoạn đầu từ những thế kỷ đầu của Công nguyên đến cuối thế kỷ 15, và giai đoạn thứ hai, từ đầu thế kỷ thứ 16 trở về sau.

Sơ Lược Về Việc Truyền Bá Cơ Đốc Giáo Tại Việt Nam

Theo Pedro Ordonez de Cevallos, một linh mục Tây Ban Nha, Sứ Ðồ Thô-ma là người đầu tiên truyền bá đạo Chúa đến Việt Nam. Cũng theo Linh mục Cevallos, khi ấy Sứ Ðồ Thô-ma đã làm chứng cho một vị vua Việt Nam tiếp nhận Chúa.

Linh mục Ordonez de Cevallos là một trong những giáo sĩ đầu tiên đến Việt Nam truyền giáo vào năm 1590. Ông đã làm phép báp-têm cho Công chúa Mai Hoa dưới thời nhà Lê tin Chúa. Tuy nhiên, ý kiến của Linh mục Cevallos cho rằng Sứ Ðồ Thô-ma đã đến truyền giảng tại Việt Nam vào thế kỷ thứ I khiến nhiều nhà nghiên cứu đặt nghi vấn vì nhận định này không có sử liệu minh chứng.

Theo sách Ngoại Kỷ, suốt thế kỷ thứ I, Việt Nam chỉ độc lập khoảng 3 năm dưới thời Hai Bà Trưng (40-43 S.C.). Trước khi Hai Bà Trưng giành độc lập, nước Việt – khi ấy gọi là Giao Chỉ – bị sáp nhập vào Tây Hán (Bái Công) 149 năm. Sau khi Hai Bà Trưng mất, Việt Nam bị nhập về Ðông Hán (Quang Võ) 144 năm. Như vậy, nếu lời Linh Mục Cevallos là đúng, Sứ Ðồ Thô-ma phải đến Việt Nam vào khoảng năm 40-43 S.C., và Hai Bà Trưng, vua Việt Nam vào thế kỷ thứ I, đã tin Chúa. Tuy nhiên, trong những sử sách Việt Nam còn tồn tại đến ngày nay, không một tài liệu nào ghi lại việc ấy.

Hơn nữa, về phương diện lịch sử Hội Thánh, giả thuyết này cũng khó được chấp nhận. Nếu những nhà làm lịch tính đúng, Hội Thánh được thành lập vào khoảng năm 33 S.C.. Nhưng chúng ta biết, trong vài năm đầu Hội Thánh chỉ phát triển tại Giê-ru-sa-lem. Khi những cơn bắt bớ đầu tiên xảy ra, Hội Thánh mới phát triển sang vùng Giu-đê và Sa-ma-ri. Nếu chỉ vài năm sau đó, các đầy tớ Chúa đã vượt gần nửa vòng trái đất để truyền bá đạo Chúa đến Việt Nam thì có lẽ hơi quá sớm.

Phạm Văn Sơn, tác giả Việt Sử Tân Biên, do nhà xuất bản Ðại Nam phát hành tại Sài Gòn vào năm 1961, trích dẫn ý kiến của một số nhà nghiên cứu cho rằng thời điểm đầu tiên mà Cơ Đốc giáo được truyền đến Việt Nam có lẽ vào thời Sĩ Nhiếp làm Thái Thú tại Việt Nam (186-226 S.C.). Các học giả này cho rằng Sĩ Nhiếp đã tin Chúa và ông chính là người đã cho làm nhiều nhà thờ có hình Chúa Giê-xu và thập tự giá. Những di tích này được tìm thấy vào thế kỷ 16 dưới thời Hậu Lê.

Linh Mục Nguyễn Hồng trong cuốn Lịch Sử Truyền Giáo Việt Nam xuất bản vào năm 1959, cho biết một số thương nhân Âu châu đã đến Việt Nam từ thế kỷ thứ II. Sử Trung Hoa ghi lại rằng vào năm 166, có một sứ giả do Marcol Aurelio Antonio sai đến Trung Quốc cho biết ông đã ghé qua Giao Chỉ. Năm 266, một thương nhân tên là Tsin Lonen theo đường từ Giao Chỉ lên Nam Kinh. Vào năm 980, một số Giáo Sĩ thuộc phái Cảnh Giáo (Nestoriens) đã từ Bắc Việt đến Trung Quốc.

Ðể minh chứng cho giả thuyết đạo Chúa được truyền đến Việt Nam từ lâu, các sử gia cho biết vào thời vua Lê Anh Tông (1557-1573), khi sửa chữa lại một vài đền cổ, người ta tìm thấy hình một thập tự rất cổ trong một bức tường. Khi được trình tâu việc này, vua Lê Anh Tông đã cho trọng đãi các nhà truyền giáo Tây Phương, nhờ đó việc truyền giáo trước kia vốn bị cấm nay được dễ dãi hơn.

Dựa vào những tài liệu trên, một số sử gia cho rằng Cơ Đốc giáo đã được truyền bá đến Việt Nam khá lâu, từ trước thời kỳ Cải Chánh Giáo Hội. Công cuộc truyền giáo có thể khởi đầu từ những thế kỷ đầu tiên của công nguyên. Sau đó, Cơ Đốc giáo bị cấm đoán và bị tiêu diệt mãi cho đến đầu thế kỷ 16 mới phát triển trở lại.

Tuy nhiên, công cuộc truyền giáo vào Việt Nam được biết rõ và được sử sách ghi nhận chính thức chỉ bắt đầu từ thế kỷ 16. Sách Khâm Ðịnh Việt Sử, thời Nguyễn, do Quốc Sử Quán biên soạn, ghi lại rằng:

“Nguyên hòa nguyên niên đời vua Lê Trang Tông (1532-1533) có một Dương nhân (người Tây Phương) tên là I-nê-khu đi đường biển lén vào giảng đạo Gia-tô ở làng Ninh Cường, Quần Anh thuộc huyện Nam Chân (tức Nam Trực) và ở làng Trà Lũ, huyện Giao Thủy thuộc tỉnh Nam Định.”

Khi ấy, vua Lê Trang Tông đã ra lệnh cấm đạo nghiêm nhặt. Các tín hữu bị bắt bớ. Việc truyền giáo chỉ được dễ dàng một chút về sau vào thời vua Lê Anh Tông như đã nhắc ở trên.

Vào thế kỷ 16, lãnh thổ Việt Nam chỉ gồm có miền Bắc và vài tỉnh miền Trung ngày nay, tuy nhiên nước Việt đã có mầm mống chia đôi. Sau khi Lê Cung Hoàng bị Mạc Ðăng Dung cướp ngôi (1546), một triều thần nhà Lê là Nguyễn Kim đã cùng con rể là Trịnh Kiểm đánh đuổi nhà Mạc, tái lập nhà Lê, gọi là Lê Trung Hưng tức Nam Triều. Tuy nhiên, nhà Mạc (Bắc Triều) vẫn còn chiếm giữ nhiều vùng đất phía Bắc và tìm cách khôi phục quyền hành.

Mạc Mậu Hợp (1562-1592), muốn khôi phục lại nhà Mạc và mưu tìm sự hậu thuẫn của Tây Phương nên đã viết thư sang Manila (Philippines) mời các linh mục sang truyền giáo tại Việt Nam.

Sau khi nhận được thư của Mạc Mậu Hợp, năm 1578 các tu sĩ dòng Franciscan từ Philippines đến thăm Việt Nam. Năm 1615, các tu sĩ Jesuit – Dòng Tên – tiếp bước các tu sĩ dòng Franciscan đến Việt Nam.

Sau khi thắng nhà Mạc, hai họ Trịnh Nguyễn phân tranh, và nước Việt Nam bị chia đôi. Giữa bối cảnh ấy, công việc truyền giáo tại Việt Nam trong thời kỳ đầu vẫn có nhiều kết quả khả quan. Theo sử sách, đến năm 1639, tại Ðàng Ngoài (miền Bắc) đã có 80.000 tín đồ và tại Ðàng Trong (miền Trung) có 50.000 tín đồ Công giáo.

Trong hai thế kỷ tiếp theo, tín đồ Công giáo tại Việt Nam bị bắt bớ dữ dội. Ðến đời vua Tự Ðức, ước tính có đến 130.000 giáo hữu Việt Nam tử vì đạo.

Nhu Cầu Phổ Biến Kinh Thánh và Việc Thành Lập Chữ Quốc Ngữ

Cuối thế kỷ 16, các thương nhân Tin Lành Hòa Lan đã đến Việt Nam. Từ năm 1637-1700 Công Ty Đông Ấn Hòa Lan lập thương cuộc tại Hà Nội. Theo George Bois, từ năm 1648 Mục sư Robert Junius làm mục sư cho người Hòa Lan tại Hà Nội. Trước khi đến Việt Nam, Mục sư Robert Junius là người đã đặt ra chữ viết và dịch Kinh Thánh sang tiếng Đài Loan. Bên cạnh đó, một số sách trong Kinh Thánh đã được dịch ra chữ Hán cho người Trung Hoa tại Đài Loan và Batavia (Jakarta – Indonesia). Chúng ta không rõ việc phổ biến Lời Chúa của người Hòa Lan tại Việt Nam trong giai đoạn này như thế nào nhưng khi các lệnh cấm đạo diễn ra dưới thời vua Lê chúa Trịnh, các thương nhân Tin Lành Hòa Lan tại Hà Nội đã viết thư yêu cầu Công Ty Đông Ấn Hòa Lan ngưng chở các nhà truyền giáo và tài liệu Cơ Đốc giáo vào Việt Nam.

Khi mới đến Việt Nam, để cho việc truyền giáo được hiệu quả, các tu sĩ dòng Tên đã dành nhiều thì giờ tìm hiểu văn hóa, tập quán của dân Việt. Vì chữ Nôm khó học nên các giáo sĩ đã nghĩ đến một phương pháp mới dùng mẫu tự La Tinh để ghi âm tiếng Việt Nam, về sau gọi là chữ Quốc Ngữ.

Trong giai đoạn phôi thai của loại chữ viết mới, Linh mục Gaspard de Amaral đã soạn cuốn Từ Vựng Việt Nam – Bồ-đào-nha bằng chữ Quốc Ngữ. Linh mục Antoine de Barbosa soạn tiếp cuốn Từ Vựng Bồ-đào-nha -Việt Nam. Dựa vào đó, về sau Linh mục Alexandre de Rhodes hệ thống lại và soạn ra bộ Từ Ðiển Việt Nam – Bồ-đào-nha – La Tinh. Sách nầy được phát hành tại Rome vào năm 1651. Linh mục Alexandre de Rhodes cũng xuất bản một số sách vở khác bằng chữ Quốc Ngữ và ông được xem là cha đẻ của chữ Quốc Ngữ. Sau đó, chữ Quốc Ngữ đã thay thế chữ Nôm trở thành chữ viết chính thức của người Việt.

Khái Quát Quá Trình Phiên Dịch Và Phổ Biến Kinh Thánh Việt Ngữ

Mặc dầu chữ Quốc Ngữ được phát minh từ thế kỷ 17 với mục đích phổ biến đạo Chúa, nhưng phải mất gần 250 năm sau, đến năm 1872, Giáo hội Công giáo mới phát hành những phần Kinh Thánh rời rạc đầu tiên bằng Việt Ngữ. Suốt gần 100 năm kế tiếp, các bản dịch Kinh Thánh Việt Ngữ của Giáo hội Công giáo chỉ nhằm phục vụ cho hàng giáo phẩm, chứ không phổ biến rộng rãi cho giáo dân. Mãi đến sau Cộng Ðồng Vatican II (1963), Giáo hội Công giáo Việt Nam mới thực hiện những nỗ lực đáng kể để phiên dịch và phổ biến Kinh Thánh bằng Việt Ngữ.

Về phía Giáo hội Tin Lành, một số nổ lực dịch Kinh Thánh sang tiếng Việt đã được Thánh Kinh Hội hổ trợ từ nửa đầu của thế kỷ 19. Trước khi các nhà truyền giáo Tin Lành được phép vào Việt Nam, một số sách Phúc Âm đã được dịch ra tiếng Việt với mục đích chuẩn bị cho công việc truyền giáo. Chỉ 5 năm sau khi Tin Lành truyền đến Việt Nam (1911), vào năm 1916 các nhà lãnh đạo Hội Thánh Tin Lành đã bắt đầu cho phiên dịch toàn bộ Kinh Thánh sang tiếng Việt. Công trình này kéo dài gần 10 năm và đến năm 1926, các tín hữu Tin Lành Việt Nam đã có bộ Kinh Thánh đầu tiên bằng ngôn ngữ của mình.

Phiên Dịch Kinh Thánh Cho Người Việt Trong Thế Kỷ 19

Căn cứ trên những tài liệu từ Giáo hội Tin Lành, Giáo hội Công giáo, và tài liệu của Thánh Kinh Hội Liên Hiệp (United Bible Societies – UBS), quá trình phiên dịch và phát hành Kinh Thánh Việt Ngữ có thể sơ lược như sau:

– Thánh Kinh Hội Anh Quốc và Hải Ngoại (BFBS) được thành lập vào ngày 7/3/1804. Chưa đầy 30 năm sau ngày thành lập, Thánh Kinh Hội đã phổ biến Kinh Thánh tại Việt Nam. Bản Kinh Thánh được phổ biến tại Việt Nam trong giai đoạn này là bản dịch của Mục sư Robert Morrison, nhà truyền giáo Tin Lành đầu tiên tại Trung Hoa. Bản Kinh Thánh Hán Văn được phổ biến tại Việt Nam trong những thập niên sau là bản Văn Lý (Wenli).

Hai người trong số bốn dịch giả của bản Văn Lý đã đến Việt Nam. John Robert Morrison, người chủ trì chương trình dịch bản Kinh Thánh này, là thông dịch viên cho phái đoàn Hoa Kỳ đến xin bang giao với Việt Nam vào thời vua Minh Mạng (1833). Mục sư Charles Gutzlaff, người phiên dịch chính của bản Văn Lý, là thông dịch viên cho phái đoàn Anh mang thư của Nữ Hoàng Victoria đến xin bang giao vào thời vua Thiệu Trị (1847). Trong một bức thư gởi cho Thánh Kinh Hội vào năm 1828, Mục sư Charles Gutzlaff đã viết: “Không bao lâu nữa, chúng ta cần 10.000 cuốn Tân Ước để phổ biến cho Đàng Ngoài, Đàng Trong, Hải Nam, vùng duyên hải Trung Hoa, Mãn Thanh và Đại Hàn.” Mục sư Charles Gutzlaff có biên soạn một cuốn từ điển tiếng Việt và dịch vài sách trong Kinh Thánh sang tiếng Việt. Mục sư Charles Gutzlaff cũng viết một bài nghiên cứu về Việt Nam đăng trên tạp chí về Địa Dư Hoàng Gia Anh Quốc trong đó có nhắc Hoàng Sa và Trường Sa là của Việt Nam.

– Vào năm 1872, Giáo Hội Công Giáo xuất bản một cuốn sách hướng dẫn về giáo nghi, trong đó có dịch một số sách Phúc Âm trong Kinh Thánh. Cuốn sách trên được phát hành tại Bangkok, Thái Lan vào năm 1872.

– Về phía Giáo Hội Tin Lành, vào năm 1890, Jean Bonnet, Giáo Sư của trường Ngôn Ngữ Ðông Phương tại Paris (Paris School of Oriental Languages), đã dịch Phúc Âm Luca sang tiếng Việt. Khi dịch Phúc Âm Luca, Giáo sư Bonnet đã dùng bản Kinh Thánh Pháp văn Ostervald để dịch. Bonet dịch Phúc Âm Lu-ca sang cả chữ Nôm lẫn Quốc Ngữ. Vì Thánh Kinh Hội không có mẫu in chữ Nôm nên bản dịch Quốc Ngữ được in trước với số lượng 10000 cuốn tại Paris vào năm 1890. Sau đó, Bonet dịch tiếp Phúc Âm Mác.

Trương Vĩnh Ký và Huỳnh Tịnh Của là hai học giả Việt Nam uyên thâm chữ Quốc Ngữ trong thế kỷ 19. Jean Bonet cũng mà một người rất giỏi chữ Quốc Ngữ. Jean Bonet đã thay Trương Vĩnh Ký làm Giám đốc Gia Định Báo, tờ báo Quốc Ngữ đầu tiên của Việt Nam. Jean Bonet cũng là hiệu trưởng của trường Thông Ngôn tại Sài Gòn, nơi Trương Vĩnh Ký dạy. Huỳnh Tịnh Của là học giả đã có nhiều cống hiến vào việc phổ biến chữ Quốc Ngữ. Một trong những cống hiến quan trọng của ông là việc biên soạn cuốn Đại Nam Quốc Âm Tự Vị, xuất bản vào năm 1896. Trong khoảng thời gian đó, Jean Bonet biên soạn từ điển Việt – Pháp tại Paris. Bộ từ điển của Jean Bonet biên soạn không chỉ giải thích ý nghĩa của mỗi từ, nhưng cũng ghi luôn ngữ căn Hán Nôm. Sách xuất bản vào năm 1899 tại Paris. Bộ từ điển của Jean Bonet được Linh mục Cố Chính Linh và các nhà truyền giáo Tin Lành dùng để dịch Kinh Thánh trong những năm về sau.

– Năm 1891, Thánh Kinh Hội được chính thức hoạt động tại Sài Gòn. Phúc Âm Lu-ca bằng Quốc Ngữ được phổ biến trong giai đoạn này.

– Năm 1896, Walter James làm đại diện Thánh Kinh Hội tại Sài Gòn. Các nhân viên Thánh Kinh Hội đã đẩy mạnh việc phổ biến Kinh Thánh tại miền Nam và Campuchia. Trong khoảng thời gian từ năm 1896-1899, Walter James đã dịch lại Phúc Âm Mác, dịch Phúc Âm Giăng và sách Công Vụ trong Tân Ước.

– Năm 1898, Phúc Âm Lu-ca được tái bản.

– Năm 1899, Thánh Kinh Hội Anh Quốc (BFBS) xuất bản Phúc Âm Mác tại Singapore.

Phiên Dịch Và Phát Hành Kinh Thánh Việt Ngữ Trong Thế Kỷ 20

– Năm 1900, Thánh Kinh Hội Anh Quốc (BFBS) xuất bản Phúc Âm Giăng và đến năm 1903 lại xuất bản sách Công Vụ Các Sứ Ðồ tại Paris. Hai bản dịch nầy do Walter James, nhân viên của Thánh Kinh Hội Anh Quốc, thực hiện.

– Năm 1913, Giáo sĩ P.M. Hosler thuộc Hội Truyền Giáo Phúc Âm Liên Hiệp (CM&A) đã dịch lại Phúc Âm Mác ra chữ Nôm. Bản dịch nầy được xuất bản năm 1913 tại Ngô Châu (Wuchow), thuộc tỉnh Quảng Tây, Trung Hoa.

– Năm 1913-1914, Giáo hội Công giáo đã xuất bản Thánh Kinh Cựu Ước. Bản dịch nầy được in song ngữ với bản La-tinh Vulgate. Ðến năm 1916, Giáo hội Công giáo phát hành Tân Ước và cũng in song ngữ, một bên là chữ Việt, một bên là chữ La Tinh theo bản Vulgate.

– Năm 1916, công tác phiên dịch Kinh Thánh của Giáo hội Tin Lành được đẩy mạnh. Ủy ban phiên dịch trong giai đoạn đầu gồm có Mục sư và bà William C. Cadman, Giáo Sĩ John D. Olsen, cụ Hoàng Trọng Thừa và Quốc Phục Hòa. Vài năm sau, cụ Hoàng Trọng Thừa và Quốc Phục Hòa trở thành mục sư phải dành nhiều thì giờ mở mang Hội Thánh, ít có thì giờ phiên dịch Kinh Thánh cho nên Thánh Kinh Hội đã bổ sung thêm ba thành viên là Trần Văn Dõng, sinh viên Trường Cao Đẳng Đông Dương, Nguyễn Hữu Phúc và Phan Khôi. Cụ Nguyễn Hữu Phúc và Phan Khôi có bằng tú tài Hán học.

– Năm 1917, Thánh Kinh Hội đã xuất bản Phúc Âm Mác tại Hà Nội. Có lẽ đây là phần Kinh Thánh đầu tiên của Giáo hội Tin Lành in tại Việt Nam.

– Năm 1918, Thánh Kinh Hội xuất bản Phúc Âm Giăng và sách Công Vụ tại Thượng Hải, Trung Quốc. Năm 1919, lại tiếp tục xuất bản Phúc Âm Ma-thi-ơ. Ðến năm 1922, xuất bản sách Sáng thế Ký, Xuất Ê-díp-tô Ký, Lu-ca; tái bản Phúc Âm Ma-thi-ơ; đồng thời xuất bản lại ba sách Phúc Âm Mác, Phúc Âm Giăng và Công Vụ đã được sửa chữa.

– Năm 1923, Thánh Kinh Hội Anh Quốc xuất bản Kinh Thánh Tân Ước tại Hà Nội. Toàn bộ Kinh Thánh được thực hiện xong vào năm 1925 và xuất bản vào năm 1926 tại Thượng Hải, Trung Hoa.

Trong suốt 70 năm qua, bản Kinh Thánh nầy được tục bản nhiều lần tại Anh Quốc, Hong Kong, Hoa Kỳ, Ðức, Ðại Hàn và Việt Nam. Ðây là bản Kinh Thánh Việt Ngữ được ấn hành và xử dụng rộng rãi nhất hiện nay. Mặc dù chúng ta không có số liệu thống kê chính thức nhưng ước tính mỗi lần tái bản Kinh Thánh từ 5.000 – 10.000 cuốn; trong suốt 70 năm qua, số Kinh Thánh phát hành đã được vài trăm ngàn cuốn. Có lẽ đây là cuốn sách Việt Ngữ được phát hành nhiều nhất từ trước đến nay.

– Năm 1925, Giáo Hội Công Giáo xuất bản cuốn Các Sách Phúc Âm, do Linh Mục Marcos Gisper Forcadell thực hiện.

– Năm 1932, Thánh Kinh Hội Anh Quốc (BFBS) cho phát hành Phúc Âm Mác và Phúc Âm Giăng bằng chữ Nôm. Hai Phúc Âm nầy được in tại Thượng Hải, Trung Hoa.

– Năm 1951, Thánh Kinh Hội Anh Quốc (BFBS) tại Hong Kong đã cho xuất bản sách Giăng và sách Công Vụ. Bản dịch mới nầy do cụ Mục sư Ông Văn Huyên, Giáo sĩ John D. Olsen, Mục sư Nguyễn Văn Vạn và Mục sư Phan Ðình Liệu thực hiện.

– Năm 1952, Thánh Kinh Tân Ước Nhuận Chánh được dịch xong. Ban Chấp Hành Trung Ương của Hội Thánh Tin Lành Việt Nam chấp nhận và cho phép ấn hành.

– Năm 1954 Thánh Kinh Hội Anh Quốc cho phát hành bản dịch Tân Ước Nhuận Chánh nêu trên tại Sài Gòn. Sau đó, bản dịch nầy được tái bản và tục bản nhiều lần vào những năm 1957, 1960, 1968. Bản dịch Tân Ước nầy được các học giả gọi là Bản Dịch Việt Văn 1952.

– Năm 1961, một bản dịch Thánh Kinh Tân Ước toàn bộ khác được các tu sĩ Dòng Ða Minh xuất bản tại Sài Gòn.

– Năm 1962, Thánh Tâm Biệt Thư tại Ðà Lạt đã xuất bản Ngũ Kinh Môi Se, Thi Thiên và Thánh Kinh Tân Ước do Linh mục Gérard Gagnon thực hiện.

– Năm 1963, Thánh Tâm Biệt Thư tại Ðà Lạt lại tiếp tục xuất bản những phần còn lại của Thánh Kinh Cựu Ước gồm những sách từ Giô Suê cho đến sách Gióp và các sách tiên tri từ Ê-sai cho đến Malachi. Những sách nầy cũng do Linh mục Gérard Gagnon thực hiện.

– Năm 1969, nhà xuất bản Ðức Mẹ tại Sài Gòn phát hành Thánh Kinh Tân Ước do Linh mục Nguyễn Thế Thuấn phiên dịch.

– Năm 1969, Thánh Kinh Hội Việt Nam phát hành các sách Công Vụ, Phi-lê-môn, Gia-cơ, I & II Phi-e-rơ tại Sài Gòn. Ðây là một phần trong một đề án phiên dịch mới gọi là Bản Dịch Phổ Thông (Common Language Version) của Thánh Kinh Hội Việt Nam.

– Năm 1970, Linh mục Trần Hữu Thanh đã sửa chửa lại bản dịch của Linh mục Nguyễn Thế Thuấn cho phổ cập lại với giọng văn hiện đại và xuất bản cuốn Thánh Kinh Tân Ước nầy để xử dụng trong Nha Tuyên Úy Công Giáo của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.

– Năm 1970, Thi sĩ Nguyễn Xuân Hồng đã dịch Phúc Âm Mác, được in với nhan đề Vào Ðời. Bản dịch mới nầy được phòng sách Tin Lành Sài Gòn xuất bản. Công tác phiên dịch và xuất bản đã được thực hiện dưới sự hổ trợ của Living Bible International (LBI).

– Năm 1971, nhà xuất bản Ra Khơi tại Sài Gòn đã phát hành Kinh Thánh toàn bộ do Linh mục Trần Ðức Huân thực hiện, với sự giúp đỡ của một Ủy Ban Phiên Dịch. Ủy ban nầy đặt dưới sự hướng dẩn và kiểm soát của Giám mục Trương Cao Ðại.

– Năm 1973 Thánh Kinh Hội Việt Nam lại cho xuất bản tiếp các sách Phúc Âm Ma-thi-ơ, Mác, Lu-ca, Giăng, cùng với sách Công Vụ của Bản Dịch Phổ Thông đã được hiệu đính.

Theo tài liệu của Thánh Kinh Hội Quốc Tế Liên Hiệp (UBS), những sách vừa phát hành nêu trên cùng những sách đã được Thánh Kinh Hội Việt Nam phát hành vào năm 1969 là những sách đã được dịch xong của một bản dịch mới gọi là Bản Phổ Thông (Common Language Version) do các dịch giả gồm: Mục sư Lê Hoàng Phu, Mục sư Lê Vĩnh Thạch, Mục sư Nguyễn Xuân Hồng, ông Nguyễn Văn Nha cùng một số các vị khác thực hiện. Tuy nhiên, bản này chỉ in rời rạt mà không hoàn tất.

– Năm 1975, World Home Bible League tại South Holland, Illinois phát hành một bản dịch sách Phúc Âm Mác mới.

– Sau khi Việt Nam thống nhất, Hội Thánh Tin Lành Đông Đức đã tặng cho Hội Thánh Tin Lành Việt Nam 20.000 Kinh Thánh và 20.000 Thánh Ca. Tuy nhiên 18.000 Kinh Thánh và 18.000 Thánh Ca đã bị thiêu hủy tại Hải Phòng với lý do không có giấy phép phân phối.

– Năm 1976, toàn bộ Kinh Thánh do Linh mục Nguyễn Thế Thuấn thực hiện đã được phổ biến tại Sài Gòn. Phần Tân Ước trong bản dịch này được phiên dịch từ nguyên văn Hy Lạp. Tuy nhiên, do tình hình chính trị tại Việt Nam không thuận lợi cho việc xuất bản Kinh Thánh cho nên năm 1980, các linh mục dòng Chúa Cứu Thế tại La Verne, California đã cho xuất bản toàn bộ bản dịch Kinh Thánh của Linh mục Nguyễn Thế Thuấn tại California.

– Năm 1982, Hội Living Bible International tại Hong Kong đã phát hành Thánh Kinh Tân Ước do Mục sư Tiến sĩ Lê Hoàng Phu thực hiện. Bản dịch mới này thường được đọc giả biết đến dưới tên Thánh Kinh Tân Ước Diễn Ý.

– Cũng vào đầu thập niên 1980, Giáo hội Công Giáo phát hành bản dịch Kinh Thánh Tân Ước do Hồng Y Trịnh Văn Căn thực hiện, tại Hà Nội. Bản dịch này được Cộng Ðồng Công Giáo Việt Nam tái bản lần thứ nhất vào năm 1985 tại Orange County, CA.

– Vào năm 1987, Vietnamese Bible Inc. được thành lập tại Midland, Texas, với mục đích thực hiện một bản dịch Kinh Thánh Việt Ngữ trung thực, hiện đại, truyền đạt được chân lý của Chúa. Lúc đầu, Vietnamese Bible Inc. do các mục sư Baptist Việt Nam khởi xướng, nhưng sau đó dự án đã mở rộng và mời các mục sư thuộc các giáo phái Tin Lành khác nhau cùng cộng tác. Thành phần của Ủy Ban Phiên Dịch hiện nay gồm có các Mục sư Lê Hoàng Phu, Võ Ngọc Thiên Ân, Trần Ðào, Nguyễn Hữu Cương, Mai Hữu Phước, Nguyễn Minh Thắng, Nguyễn Xuân Hà và bà Phạm Xuân.

– Mục sư Phạm Xuân Tín dịch Thánh Kinh Tân Ước.

– Năm 1994, toàn bộ Thánh Kinh do Mục Sư Lê Hoàng Phu và ba dịch giả phiên dịch đã được Thánh Kinh Hội Quốc Tế (International Bible Society – IBS) và Văn Phẩm Nguồn Sống phát hành vào tháng 6/1994 tại Anaheim, California.

– Năm 1994 Nhà Xuất Bản Thuận Hóa được cấp giấy phép in Kinh Thánh. Năm 1995, 5000 Kinh Thánh và 5000 Tân Ước được in tại nhà in Trần Phú. Việc tái bản này do Hội Thánh Tin Lành Việt Nam thực hiện với sự hổ trợ của Thánh Kinh Hội Liên Hiệp (UBS). Ðây là bản Kinh Thánh đầu tiên của Giáo Hội Tin Lành Việt Nam được phép in và phát hành dưới chế độ cộng sản Việt Nam.

– Năm 1994, Tòa Tổng Giám Mục tại Thành Phố Hồ Chí Minh đã xuất bản 30.000 Thánh Kinh Tân Ước. Công trình này được thực hiện bởi Linh mục Hoàng Ðắc Ánh và Linh mục Trần Phúc Nhân. Việc xuất bản Kinh Thánh do cơ quan Thánh Kinh Hội Quốc Tế (IBS) bảo trợ.

Vào năm 1973, Thánh Kinh Hội Quốc Tế đã tổ chức một khóa huấn luyện cho các nhân viên phiên dịch Kinh Thánh tại Ðà Lạt. Ðại diện của các giáo phái Tin Lành và Công Giáo đã đến tham dự. Các đại biểu đã bàn thảo về một đề án phiên dịch Kinh Thánh dựa theo khuôn mẫu bản dịch Jerusalem là bản dịch mà cả hai giáo hội Công Giáo và Tin Lành cùng phối hợp thực hiện.

Năm 1974, Mục sư Nguyễn Thỉ và Mục sư Trần Ðào đại diện cho Hội Thánh Tin Lành Việt Nam bàn thảo với quí Linh mục Hoàng Ðắc Ánh và Linh mục Trần Phúc Nhân về những đường lối và nguyên tắc thực hiện. Rất tiếc, biến cố 30/4/1975 xảy ra, các Mục sư Nguyễn Thỉ và Trần Ðào ra đi, hai linh mục Công Giáo ở lại tiếp tục dự án phiên dịch Kinh Thánh. Năm 1985 Thánh Kinh Tân Ước được dịch xong và đã được Tòa Tổng Giám Mục Giáo Phận Thành Phố Hồ Chí Minh phát hành vào năm 1994 với sự hổ trợ của Thánh Kinh Hội Liên Hiệp (UBS)

Trong khoảng thời gian từ năm 1994-1997, Thánh Kinh Hội đã hổ trợ in 100.000 Kinh Thánh và Thánh Kinh Tân Ước cho Hội Thánh Tin Lành Việt Nam tại miền Nam, và 100.000 Tân Ước cho Giáo hội Công giáo tại các Giáo phận Thành Phố Hồ Chí Minh, Giáo phận Nha Trang và Giáo phận Hà Nội.

– Năm 1996, Phúc Âm Giăng do Mục sư Ðặng Ngọc Báu dịch từ nguyên văn Hy Lạp đã xuất bản tại San Diego, CA. Bản dịch mới này được dùng làm tài liệu chứng đạo cho thân hữu.

– Năm 1999, Hội Thánh Tin Lành Việt Nam tại miền Bắc được phép in 50.000 Kinh Thánh; tuy nhiên phần lớn số Kinh Thánh này được phân phối tại miền Nam.

Phiên Dịch Và Phát Hành Kinh Thánh Việt Ngữ Trong Thế Kỷ 21

– Năm 2001, 10.000 Kinh Thánh Hán Văn đã được cung hiến tại Chợ Lớn.

– Năm 2002, bản dịch của Hội Kinh Thánh Việt Nam (Vietnamese Bible Inc.) hoàn tất, được phát hành tại Hoa Kỳ với tên gọi là Bản Dịch Mới. Giới nghiên cứu gọi bản dịch này là Bản Dịch 2002.

– Năm 2003, 5.000 Kinh Thánh tiếng Pháp và 5.000 Kinh Thánh tiếng Anh đã được phát hành tại Việt Nam.

– Năm 2006, Nhà Xuất Bản Tôn Giáo Việt Nam với sự hổ trợ của Thánh Kinh Hội Quốc Tế đã phát hành 20.000 Kinh Thánh Tân Ước Song Ngữ Ê-đê – Việt và 20.000 Kinh Thánh Tân Ước Song Ngữ Jrai – Việt. Trong các ấn bản này, Kinh Thánh Tân Ước Jrai dựa trên bản dịch năm 1974, Kinh Thánh Tân Ước Ê-dê (Rade) dựa trên bản dịch năm 2001 và Kinh Thánh Tân Ước Việt Ngữ dựa trên bản Hiệu Đính năm 2004.

– Năm 2010 Bản Kinh Thánh Hiệu Đính Truyền Thống được phát hành tại Việt Nam.

Sau khi Kinh Thánh được phép tái bản tại Việt Nam vào năm 1994, Thánh Kinh Hội đã phối hợp với các mục sư và tín hữu trong cộng đồng Tin Lành Việt Nam để thực hiện việc hiệu đính Bản Dịch 1926. Ủy ban Hiệu Đính chính thức hoạt động từ năm 1998. Người chịu trách nhiệm chính là Mục Sư Phạm Xuân Thiều, Trịnh Chiến và Lê Tân. Sau đó có thêm Truyền Đạo Châu Tử Tôn. Bản hiệu đính Tân Ước phát hành vào năm 2004 và hiệu đính Cựu Ước phát hành vào năm 2007. Toàn bộ Tân – Cựu Ước được phát hành vào năm 2010 và tái bản vào năm 2011. Bản dịch này được gọi là Bản Hiệu Đính Truyền Thống hay Bản Hiệu Đính 2010.

– Năm 2010, bản Kinh Thánh Việt Ngữ dựa theo bản Anh Ngữ của World Bible Translation Center (Arlington, Texas) được xuất bản tại Hoa Kỳ với tên gọi là Bản Phổ Thông. Bản dịch này do Giáo sư Phạm Quang Tâm thực hiện.

– Năm 2011, Văn Phẩm Nguồn Sống tại Anaheim, California phát hành bản thảo Tân Ước song ngữ New International Version – Văn Phẩm Nguồn Sống (NIV-VPNS).

– Năm 2011, Hội Kinh Thánh Việt Ngữ phát hành bản dịch Kinh Thánh được dịch trực tiếp từ nguyên văn Hebrew (Do Thái) và Greek (Hy Lạp) tại California. Bản dịch này do Mục Sư Ðặng Ngọc Báu thực hiện.

Bài viết này chỉ là bản thảo, sẽ được cập nhật.